Trang Nhà
Sinh Hoạt Về Dưới Phật Đài 2014 Thứ Sáu-Thứ Bảy 18-19.04.2014
- Details
- Geschrieben von: minhtrang
- Kategorie: KỶ NIỆM
- Zugriffe: 6603
Tết Nguyên Đán & Lễ Cầu An Tân Niên Giáp Ngọ 2014 tại Tu Viện Thiện Hòa
- Details
- Geschrieben von: minhtrang
- Kategorie: KỶ NIỆM
- Zugriffe: 6456
Thông Báo Ngày Họp Mặt VỀ DƯỚI PHẬT ĐÀI 2014
- Details
- Geschrieben von: minhtrang
- Kategorie: KỶ NIỆM
- Zugriffe: 49241
{vsig}images_folder{/vsig}
{youtube}KZbXQbYlOQk{/youtube}
Nụ Cười Hồn Nhiên, Tâm Tư Trong Sáng
- Details
- Geschrieben von: minhtrang
- Kategorie: KỶ NIỆM
- Zugriffe: 6412
NGÀY HỌP MẶT SINH HOẠT VỀ DƯỚI PHẬT ĐÀI TU VIỆN THIỆN HÒA
GERMANY 2014
Tháng Tư 2014
Thứ Sáu 18.04.2014 Ngày Họp Mặt SINH HOẠT TU HỌC VỀ DƯỚI PHẬT ĐÀI
Thứ Bảy 19.04.2014 Pháp Hội Chuẩn Đề Tu Viện Thiện Hòa (cho Phật tử phụ huynh)
Tháng Mười 2014
Thứ Sáu 03.10.2014 Ngày Họp Mặt SINH HOẠT TU HỌC VỀ DƯỚI PHẬT ĐÀI
Thứ Bảy 04.10.2014 Pháp Hội Niệm Phật Tu Viện Thiện Hòa (cho Phật tử phụ huynh)
Lưu Ý: Quý vị tham dự muốn ngủ đêm lại Chùa và Tu Viện xin vui lòng đem theo túi ngủ và dụng cụ vệ sinh cá nhân. Còn những vị tham dự ngày Thứ Bảy xin hoan hỷ liên lạc với Thượng Tọa Thích Minh Phú Tel 02166 340637 để Thầy sắp xếp với Ban Trai Soạn chuẩn bị phần ăn trưa Quá Đường (cho người lớn) và ăn cơm Chánh Niệm (cho tuổi trẻ). Xin trân trọng kính mời.
Nụ Cười Hồn Nhiên, Tâm Tư Trong Sáng
Vào đầu tuần của tháng mười một năm 2013 tại Tu Viện Thiện Hòa Mönchengladbach Germany, có tổ chức hai ngày Sinh Hoạt Về Dưới Phật Đài gồm tất cả các thành viên tuổi trẻ, và phụ huynh của các em trong Khóa Tu Pháp Hội Dược Sư. Trưa ngày Thứ Sáu 01.11.2013 là Ngày Họp Mặt lần thứ nhất trong năm 2013, các em đã tập họp tại Tu Viện trong những chiếc áo đồng phục màu vàng với phù hiệu trên áo mang tên Tu Viện Thiện Hòa- Germany-Về Dưới Phật Đài với đôi mắt long lanh và nụ cười hồn nhiên của tuổi trẻ. Bên cạnh các em là cha mẹ, ông bà, cô chú và anh chị cùng tu học có chung một niệm an lạc và hạnh phúc khi nhìn các con, em cùng nhau sinh hoạt trong một đạo tràng tu học.
Một niềm vui, hòa trong nhiều niềm vui của tất cả mọi người lần đầu họp mặt với tinh thần từ bi hỷ xã sau khi cô Minh Trang và chú Hữu Ý hô khẩu hiệu: Về Dưới Phật Đài, các em nhóm Nam trả lời từ bi, các em nhóm nữ hồi đáp hỷ xã ngân vang trong Giảng Đường của Tu Viện Thiện Hòa. Lễ Khai Mạc được bắt đầu lúc 16g00 chiều, sau khi các em được Hữu Ý và Minh Trang tập hát đồng ca bài Về Dưới Phật Đài do nhạc sĩ Trần Nhật Thành sáng tác đã lâu lắm rồi. Sau phần giới thiệu của MC là lời huấn từ của Thượng Tọa Chứng Minh Thích Minh Phú và Sư Bà Thích Nữ Diệu Ân, cả nhà Về Dưới Phật Đài cùng nhau chia sẻ, trao đổi, tâm sự những vui buồn trong cuộc sống qua những đề tài khác nhau. Buổi chiều thì Ban Hộ Trì Tam Bảo cho ăn cháo với giò cháo quẩy thật là ngon miệng và sau đó các em sinh hoạt tự do đến 10 giờ đi ngủ.
Sáng thứ bảy 02.11.2013, sau khi ăn điểm tâm mỗi người một tô bánh canh nóng, khi dọn dẹp xong thì chuẩn bị bước vào sinh hoạt của ngày thứ hai. Bên chánh điện thì các cô bác lớn tuổi dần dần chuẩn bị sắp bàn kinh, phát kinh Dược Sư để vào Khóa Tu Học Pháp Hội Dược Sư. Sau thời kinh quý Phật tử lớn tuổi thì ăn cơm quá đường và đi kinh hành nhiễu Phật bên Chùa Thiện Hòa. Còn các em thì ăn cơm chánh niệm với chú Hữu Ý và cô Minh Trang. Sau khi thỉnh ba tiếng chuông, niệm Phật, cùng đọc chung bài ca dao mà tuổi trẻ ở Việt Nam ai cũng biết:
Công cha như núi Thái sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con
Sau 5 phút cả nhóm giữ im lặng, đến khi nghe chú Hữu Ý đánh tiếng chuông, các em được phép nói chuyện với nhau, thì những nụ cười khúc khích, những tiếng nói thì thầm to nhỏ tạo nên một bầu không khí vui nhộn. Về phía các em nhóm Về dưới Phật Đài từ ba bốn tuổi cho đến hơn hai mươi tuổi về từ các nơi như Neuss, Düsseldorf, Köln, Bonn, Krefeld, Koblenz v.v..Thức ăn trưa thứ bảy rất ngon gồm có chả giò, sà lát trộn, mì ý xào, tàu hủ kho, mì căn chiên, chè đậu xanh phổi tai, bánh ngọt, Schokolade, trái cây v.v.....do gia đình bác Thiện Ý (Düsseldorf và Ban Hộ Trì Tam Bảo Chùa-Tu Viện Thiện Hòa nấu nướng). Qua bên nhà bếp Chùa Thiện Hòa nhìn thấy quý bác, cô, chú chia nhau các công tác nấu ăn chuẩn bị cho cả 2 nhóm Tu Học chúng tôi rất cảm động sự nhiệt tình và tấm lòng hộ đạo của tất cả bà con Phật tử, bởi vì :
Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao
Buổi chiều sau thời thuyết giảng của Thượng Tọa Thích Minh Phú và Sư Bà Diệu Ân mỗi vị Phật tử tham dự bên khóa tu Pháp Hội Dược Sư và các em Về Dưới Phật Đài được tặng một tượng Quan Âm treo xe và một xâu chuỗi đeo tay. Cả nhà chia tay nhau trong niềm vui vẻ và quý mến với những kỷ niệm đẹp trong tâm hồn và hẹn nhau sẽ gặp lại trong mùa xuân năm 2014.
Đến Đi Trong Cỏi Mộng HT Thích Phước Tịnh
- Details
- Geschrieben von: minhtrang
- Kategorie: KỶ NIỆM
- Zugriffe: 6351
{youtube}jQS_wsIREik{/youtube}
{youtube}ieKyCSCScqI{/youtube}
Ý Nghĩa Hoa Sen Bảy Đoá
- Details
- Geschrieben von: minhtrang
- Kategorie: Phật Học
- Zugriffe: 4786
Ý nghĩa bảy bước hoa sen
Hằng năm, cứ mỗi độ mùa Phật đản về "thì khắp nơi khắp chốn" ở đâu "hình ảnh đức Phật hiện hữu, ngự trị" ở đó không khí càng vui tươi, nhộn nhịp. Đó là tất cả những người con Phật hân hoan đón mừng ngày Phật đản. Kỷ niệm Phật đản là tưởng nhớ, ôn lại và tri ân về sự ra đời vĩ đại của đức Phật.
Nguyện vọng của tất cả chúng sinh là "muốn hạnh phúc, tránh đau khổ". Sự mong mỏi hay xu hướng đến hạnh phúc và tránh đau khổ không hề có giới hạn. Đó là một sự kiện rất tự nhiên, và cũng rất chánh đáng. Sự hiện hữu của đức Thích-Ca-Mâu-Ni Thế Tôn trên quả đất này cách đây hai mươi lăm thế kỷ "quả thật" cũng không ngoài mục đích đó của vạn loại chúng sinh.
Là đệ tử của đức Phật, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đã hơn một lần được nghe sự giảng bày ý nghĩa về hình tượng bảy bước hoa sen. Bảy bước ấy là những bước chân trên con đường hạnh phúc, đưa đến hạnh phúc mỹ mãn, bất tận.
Trong không khí trang nghiêm và thành kính cùng muôn vạn trái tim người con Phật "xin cùng chia sẻ với nhau, nhân mùa Phật đản, các ý nghĩa đã từng được nghe từ các bậc Thầy về những hình ảnh trong khung cảnh mà đức Từ phụ đản sinh" qua đó, chúng ta sẽ có thể hiểu được điều gì, giúp chúng ta trong đời sống nhằm có thêm phẩm chất hạnh phúc trong cuộc tồn sinh tương quan này.
Kinh Ưu Bà Di Pháp Môn Tịnh Hạnh - phẩm Thuỵ Ứng kể rằng : "Sau khi mang thai đấng Đại thánh" gần đến ngày mãn nguyệt khai hoa, hoàng hậu Ma-gia theo phong tục trở về quê hương để sinh nở. Trên đường về, nghỉ chân ở một công viên xinh đẹp gọi là vườn Lâm-tỳ-ni, hoàng hậu khoan thai dạo bước trong vườn hưởng một bầu không khí trong lành, khỏe khoắn sau chặng đường dài mệt nhọc. Đến dưới một gốc Vô ưu, nhìn đoá Ưu-đàm ngàn năm một lần khoe sắc đưa hương "bất giác" hoàng hậu Ma-gia giơ cánh tay phải lên hái hoa "liền đó từ phía hông hữu" đức Phật đản sinh - nhẹ nhàng đi bảy bước trên bảy hoa sen, mỗi bước nhìn mỗi phương : 1, Thị Đông phương giả, vị chư chúng sinh tác đạo sư cố; 2, Thị Nam phương, vị chư chúng sinh tác lương phước điền cố; 3, Thị Tây phương giả, ngã sinh dĩ tận thị tối hậu thân cố; 4, Thị Bắc phương giả, ư nhất thiết chúng sinh, ngã đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam-bồ-đề cố; 5, Thị Hạ phương giả, vị dục phá ma binh chủng linh kì thời tận cố; 6, Thị Thượng phương giả, vị chư thiên nhân chi sở quy y cố; 7. Đến bước cuối cùng, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất và tuyên bố rằng : ''Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn''. Nói xong, chư thiên dâng hai dòng nước nóng lạnh tắm cho Ngài. Và Ngài trở lại như mọi đứa trẻ bình thường.
Hình ảnh đức Phật đản sinh và bảy bước hoa sen ấy là một biểu tượng rất ý nghĩa mà nhà Đại thừa mô tả sự đản sinh của đức Phật. Sự xuất hiện của một vị Phật - hay nói một cách rõ hơn, một chúng sinh từ thân phận phàm phu, muốn đạt đến quả vị Phật, phải trải qua lộ trình bảy bước hoa sen ấy.
* Bước thứ nhất, nhìn về phương Đông, Ngài nói : "Thị Đông phương giả, vị chư chúng sinh tác đạo sư cố" (nhìn về phương Đông, vì các chúng sinh làm người dẫn đường tối thượng). Phương Đông là phương mặt trời mọc. Mặt trời biểu hiện cho ánh sáng của trí tuệ, của sự hiểu biết lớn. Đó là bao gồm toàn bộ hành trình hình thành một tri thức, xây dựng một Phàm tuệ đến Thánh tuệ. Thế nào là Phàm tuệ ? Đó là ta phải có một tri thức, rồi từ đó, bằng sự suy tư chính chắn biết được như thế nào là một lẽ sống hay, đẹp ở cuộc đời - một trí tuệ ở địa vị phàm phu, chúng sinh. Nhưng là một con người khác với con người thác loạn của chúng ta trước đây. Người xưa đã từng nói, phải là một con người cho trọn trước khi thành một vị Phật. Đạo Phật chỉ dạy hai điều cốt yếu là từ bi và trí tuệ. Nói nôm na là sự hiểu biết và thương yêu. Sự hiểu biết đích thực là sự hiểu biết theo những chân lý Phật dạy. Khi ấy, sự hiểu biết chính là thương yêu, và ngược lại. Trí tuệ chính là Từ bi, Từ bi chính là Trí tuệ.
Có câu : "Có hiểu mới thương được". Tình yêu thương, ở đời, mấy ai sống mà không cần. Tình thương của thường tình không mấy khi không đượm thắm tánh chất vị kỷ. Đó là một thứ tình thương thiết tha mong muốn được (người kia) nhận ra rồi đòi hỏi được đáp lại. Và chỉ cho riêng mình - Nó, thật ra, chỉ làm khổ cho nhau thì nhiều hơn. Đến như những kẻ tỏ ra bất cần đời thì đó cũng là biểu hiện của một tình thương vị kỷ tột đỉnh mà bị phủ nhận hoặc không được đáp ứng. Cho nên, "sự thương yêu" là một thứ gì mà không thể thiếu của đời sống. Nó bàng bạc trong khắp các mối quan hệ giữa vợ chồng, cha con, bè bạn, xóm giềng, thân thích. Trong cuộc sống tương quan tương duyên này - nếu ai cũng hành xử cứng nhắc với đơn thuần trong bổn phận và trách nhiệm không thôi, mà không xuất phát từ một tấm lòng thương mến thật sự - thì cuộc sống này sẽ đơn điệu lắm, không sắc màu, và chẳng có nhịp cầu giao cảm nào được bắc nối cho tình người ấm cúng. Ta dễ dàng thấy rằng, ngoài bổn phận và trách nhiệm, tình cha mẹ thương con cái là một tình cảm thiên phú, rất tự nhiên. Cũng chính tình cảm ấy mới khơi dậy, phát sinh tấm lòng hiếu thảo của con trẻ, dù là đứa ngỗ nghịch nhất. Cũng chính từ sự thành thật mà mối thiện cảm bè bạn thêm thắt chặt. Sự quan tâm thật lòng với bà con xóm giềng thân thuộc của nhau mới làm cho tình người ngày thêm gắn bó keo sơn. Và để nuôi dưỡng tình thương ấy cho dài lâu và đúng nghĩa mang lại an lạc cho nhau, thì chất liệu duy nhất và đầu tiên phải là sự hiểu biết. Nếu hiểu chưa rõ ràng, thấu đạt - chúng ta sẽ dễ dàng có những lời nói, cử chỉ vụng về mà nó càng làm khổ cho nhau thôi. Và để có thái độ sáng suốt để sống yêu thương - ta phải học hỏi, phải hiểu biết. Hiểu biết những gì ? Là Phật tử, ta phải hiểu rõ giáo lý, những phương thức sống đức Phật đã dạy - Mà không gì căn để và quan trọng hơn là giáo lý Nhân quả. "Phàm làm việc gì, trước phải nghĩ đến hậu quả của nó". Chúng ta, theo đó để nhận xét rõ về những hành vi thế nào là ác, là thiện để chọn lựa thực hiện. Vậy như thế nào là thiện ? Phật dạy : một ý nghĩ, lời nói hay hành động nào đem lại lợi ích an lạc cho mình, an lạc cho người, an lạc cả hai, an lạc cho tất cả, trong hiện tại cho đến cả tương lai - đó gọi là thiện; và ngược lại. Như thế, một khi ta bắt đầu sống theo đó, tức là ta đã đi thêm một bước nữa theo chân đức Phật.
* Bước thứ hai, nhìn về phương Nam, Kinh nói rằng : "Thị Nam phương giả, vị chư chúng sinh tác lương phước điền cố" (Nhìn về phương Nam, vì các chúng sinh làm ruộng phước tốt).
Theo lời Phật dạy để sống là chúng ta bắt đầu tạo phước đức cho mình - nghĩa là chúng ta bắt đầu tu tập, bắt đầu chuyển nghiệp, hình thành thiện nghiệp. Điều đó có nghĩa là sự quy y vậy.
Yếu tố trở thành một Phật tử là sự quy y - nghĩa là quay lại mà nương tựa, mà sống theo Tam Bảo - trong tâm thức có sự xoay chiều, đổi hướng. Đó là một quyết định quan trọng và lợi ích cho đời mình. Từ đây, ta từ bỏ chiều sống mê mờ, thác loạn hay làm khổ cho nhau, bằng thân (đánh đập...), bằng lời (nói cay nghiệt, đâm thọc, xốc nhọn hai đầu...), bằng ý (xảo quyệt, ác độc) mà thay vào đó bằng chiều sống giác ngộ - biết ý thức về nhân quả nghiệp báo, biết suy xét trước hậu quả của việc mình làm để tạo an vui cho nhau. Nên khi quy y tức là rạch đôi đời mình ra - vừa kết thúc sự sống luân hồi, khổ đau; vừa mở đầu sự sống giải thoát, hạnh phúc.
Mở đầu sự sống giải thoát, hạnh phúc - ta phải quay về nương tựa những yếu tố mang phẩm tính giải thoát, hạnh phúc - đó là Tam Bảo - Phật, Pháp, Tăng. Phật là đấng đã giác ngộ, giải thoát và thuyết minh giáo lý, sự thật. Tăng là đoàn thể những người thực hành và hoằng truyền những giáo lý giải thoát ấy. Pháp là nội dung giáo lý. Như thế gọi là Tam Bảo. Bảo là quý. Tam Bảo là ba sự quý báu trên thế gian. Bởi lẽ chúng ta dễ dàng thấy rõ rằng, vàng bạc, tiền của không hẳn là yếu tố quyết định sự bình an hạnh phúc, mặc dù nó có khả năng góp phần hạnh phúc. Nhưng đôi khi nó đem lại sự chia rẽ, hận thù, giết chóc, gây khổ đau cho nhau. Chỉ có những phương thức sống vui, sự bình an trong tâm hồn mới đưa đến niềm hạnh phúc chân thực và vững bền hơn. "Không có hạnh phúc nào lớn hơn bằng sự yên tĩnh của tâm hồn". Cho nên, ta có thể định nghĩa một cách nôm na rằng, Phật giáo là một cách làm cho đời sống có ý nghĩa. Sự quy y hay học Phật Pháp cũng như sự nghe Pháp của chúng ta hôm nay - điều tiên yếu và căn trọng nhất mà người Phật tử chúng ta cần có là Chánh kiến để nhận chân đâu là lẽ sống đúng, tốt, đẹp mà mình phải theo. Và mình tự phát nguyện làm theo. Đó chính là sự phát nguyện lãnh thọ và hành trì năm giới - hay nói cách khác là năm nhân cách làm người thiện lành trong nhân loại. Vì như trước đã nói, phải là một con người trọn vẹn trước khi thành Phật (5 điều nên giữ để hoàn thiện nhân cách).
- Nhân cách thứ nhất : Ý thức rằng, thân mạng là vốn quý nhất. Vì vậy con nguyện bảo vệ thân mạng của mình một cách cẩn thận. Không tự phá hoại nó bằng những thứ có độc tố. Con nguyện làm người lương thiện, bằng cách lấy lý trí để hóa giải khổ đau, lấy từ tâm để yêu thương tất cả. Con nguyện không giết hại, cũng không tán thành sự giết hại. Không gây chiến tranh, cũng không tán thành chiến tranh.
- Nhân cách thứ hai : Ý thức rằng, sống là phải có vật cung ứng cho sự sống. Con nguyện tạo ra nguồn sống để nuôi thân bằng bàn tay, khối óc, và con tim của mình. Con nguyện không trộm cắp, cũng không tán thành sự trộm cắp dưới mọi hình thức. Con nguyện thực hiện lương thiện bằng cách lấy trí tuệ và phước đức ra làm lợi người, nhằm lành mạnh hóa thế gian, để đem đến hạnh phúc cho cuộc sống tương duyên này.
- Nhân cách thứ ba : Ý thức rằng, mưu cầu hạnh phúc lứa đôi là điều mà những người sắp trưởng thành trong thế gian đều mong ước. Con nguyện bảo vệ hạnh phúc lứa đôi, không sinh tâm ngoại tình, lang chạ nhằm bảo vệ hạnh phúc cho gia đình, thanh bình cho xã hội và an toàn cho giống nòi. Con nguyện làm người lương thiện, không gây khổ đau cho cuộc sống, cũng không tán thành những hành vi đem đến khổ đau cho mọi lứa đôi và mọi gia đình.
- Nhân cách thứ Tư : Ý thức rằng, lời nói có thể đem đến hạnh phúc hay khổ đau. Con nguyện không nói những lời cộc cằn, thô lỗ, tục tĩu, mỉa mai, gây chia rẽ, hận thù, mất đoàn kết. Con nguyện không nói sai sự thật, trừ lúc vị tha. Con nguyện không loan truyền, cũng không phê phán những gì con không biết rõ. Con ý thức rằng, ngôn ngữ là tài sản chung của mọi người, nên nguyện dùng lời hay ý đẹp để đi vào cuộc sống. Nguyện thực tập hạnh ái ngữ, dùng lời nói nhẹ nhàng, êm ái, thân thương, xây dựng, đoàn kết và hòa hợp; nhằm hóa giải những nội kết do hiểu lầm nhau. Con nguyện thực hiện chánh ngữ, nhằm làm trong sáng ngôn từ, lành mạnh hóa xã hội, bảo vệ tiếng nói tốt đẹp cho giống nòi.
- Nhân cách thứ năm : Ý thức rằng, Trí tuệ là ngọn đuốc soi đường đến chân, thiện, mỹ. Con nguyện luôn luôn giữ gìn sự định tĩnh và trong sáng của tâm hồn. Nguyện không sử dụng ma túy, và những độc tố tác hại thân tâm như rượu, thuốc lá, kể cả những sản phẩm có pha chế hóa chất gây ra ung thư và bệnh tật. Con nguyện không sử dụng những sản phẩm độc hại tâm hồn như phim ảnh, sách báo, băng từ có nội dung không lành mạnh cho thân tâm, gây chiến tranh, bạo động đưa đến hận thù. Nguyện chỉ tiêu thụ những sản phẩm bổ ích cho thân tâm, nhằm bảo vệ sức khỏe cho bản thân, an vui cho gia đình, lành mạnh hóa giống nòi, thanh bình cho cuộc sống.
Đó là năm nhân cách căn bản mà mỗi một chúng ta phải học tập và thực hành. Được vậy, loài người mới có cơ duyên tồn tại lâu dài trên trái đất này.
Như thế, nói về ý nghĩa phương Nam - tức là ruộng phước điền của chúng sinh - phương Nam là phương không có ánh nắng gay gắt như phương Đông, cũng không ảm đạm như phương Bắc - phương Nam là phương ánh sáng êm dịu và mát mẻ - dụ cho sự dứt ác làm lành của chúng ta. Chúng ta chuyên suy nghĩ, nói năng và làm việc lợi lạc cho chúng sinh, đó là tự tạo ruộng phước cho mình - tự mình mát mẻ, thanh thản mà mọi người xung quanh cũng bằng lòng, hòa lạc. Đây là giai đoạn của chúng ta, những người Phật tử bắt đầu quy hướng Tam Bảo và tập tu hành phước thiện.
Nhưng lộ trình tìm kiếm một hạnh phúc vững bền, chắc thật không phải dừng lại ở đó - mà bước tiếp bước nữa. Cố nhiên là để có bước sau thì tất yếu phải có bước trước.
* Bước thứ ba, ở phương Tây, có câu rằng : "Thị Tây phương, vị chúng sinh dĩ tối hậu thân cố" (Nhìn về phương Tây, vì chúng sinh đây là thân cuối cùng vậy).
Chúng ta, những người đã, đang và sẽ lăn lộn với đời - trải nghiệm biết bao sóng gió bất trắc của cuộc đời - nếu chịu khó nhìn lại - ta dễ dàng đúc kết rằng : thật là hạnh phúc, sung sướng biết mấy khi tâm hồn yên tĩnh. Bởi lẽ, có mấy khi tâm hồn ta thoát được những ý tưởng lo toan, sợ hãi đủ điều về sự sống. "Thằng ý" cứ rong ruổi mãi với những ảo tưởng dự phóng về tương lai vô định hoặc quay về bứt rứt ngậm ngùi một chuyện lầm lỡ buồn tủi năm kia, tháng trước hay nuối tiếc những phút giây của những cuộc vui chóng tàn đã qua mấy khi lặp lại. Trong hiện tại thì hoang mang, dật dờ thất niệm (mất phương hướng, chủ định) hoặc cứ lặp đi lặp lại một cách máy móc như một bộ phận nhỏ vô hồn trong một guồng máy xã hội khổng lồ luôn luôn cuốn ta vào sự vận hành khắc nghiệt của nó. Chúng ta được mấy chốc sống lại với chính mình, được hưởng thụ dù giây lát sự thanh bình trong tâm hồn mình. Cho nên, sau khi đã thành thục bước đi "dứt ác hành thiện" việc kế tiếp là "giữ tâm ý trong sạch, vắng lặng, yên tịnh, thanh bình" - đó là nôm na, để dễ hiểu - sau bước chuyển nghiệp là bước dứt nghiệp. Nghiệp là mọi hành động tạo tác có động cơ sâu xa trong tâm ý. Và năng lực của nó là cái sức mạnh đưa đẩy chúng ta đi từ kiếp này qua kiếp nọ mãi không thôi. Dĩ nhiên ai cũng hiểu rằng, mỗi một cuộc tử sinh như vậy, chứa đựng trong nó nhiều nỗi khổ đau bất hạnh hơn là niềm vui sướng. Vì thế, giải thoát sinh tử, thực sự mới là niềm vui lớn theo tôn chỉ cứu cánh rốt ráo Phật dạy. Cho nên, chấm dứt sự thi vi tạo tác của ý khiến cho trong sạch, vắng lặng được xem như phương thức dẫn đến sự chấm dứt hẳn khổ đau. Đến đây ta thấy rằng, tâm ý rất là quan trọng trong sự tu tập của chúng ta, quyết định niềm hạnh phúc, an lạc của chúng ta. Rõ ràng, chỉ có thái độ chấp nhận trong tầm tay, trong năng lực, khả năng giới hạn của ta đối với những gì mình mong ước - điều đó mới đặt để và quyết định hạnh phúc của ta - có nghĩa là với ta, tiêu chuẩn để có niềm vui là đơn giản, nhẹ nhàng như vậy mà không phải là những tham vọng ôm đồm tất cả mọi thứ. Nhà Phật gọi đó là thiểu dục tri túc. Cố nhiên, đó không phải là an phận, là dừng lại, đóng khuôn - mà ngược lại làm cho ta luôn phấn đấu để kiến tạo hạnh phúc của ta ngày càng có phẩm chất hơn: song song với tiện nghi vật chất, đời sống tinh thần phải được quan tâm, tình cảm phải được chuyển hoá cho tâm hồn thanh cao, thánh thiện. Tình cảm chuyển hoá như thế nào theo ý nghĩa "dứt nghiệp" ? Có câu "trong thiện có mầm của cái ác" - đó là lẽ đối đãi nhị nguyên tự nó trong cuộc sống mang tính duyên sinh này. "Do cái này có nên cái kia có". Thiện ác với tâm tư chúng ta bây giờ cũng vậy nếu đi sâu vào một tầng nữa của tâm lý. Dẫu biết rằng với những lời nói, việc làm, ý nghĩ bất thiện, trái với lương tâm thì chính tự bản thân nó dù không ai thấy, ai nghe, ai biết - tự nó cũng đã đối mặt với "toà án lương tâm" mình trong chiều sâu tối tăm, dằn vặt của tâm hồn. Còn làm thiện thì sao ? Dĩ nhiên là đem lại sự thanh thản cho mình vì không phải lo sợ những hậu quả khi mình đã không tham gia tạo tác. Nhưng có một lẽ thật là khi ấy, tâm lý ta trở nên rất ghét và có phản ứng quyết liệt, bị xao động trước các hành động tội lỗi, độc ác - muốn tẩy trừ, tiêu diệt, thanh trừng một cách không khoan nhượng những phần tử đó - mà trong nhiều mối duyên nghiệp đưa đẩy, ta chịu khó sẽ dần dần nhận ra được : vì lý do này, hay hoàn cảnh kia làm cho nó hành xử như thế với một tâm hồn dày đặc ác nghiệp như thế. Những tưởng phút vinh quang của ác nghiệp khi thắng thế là rực rỡ. Nhưng liền sau đó, ngay trong nó, sự sợ hãi âm thầm luôn ngấm ngầm trong tâm hồn nó rất khủng khiếp. Biết được như vậy, thì mỗi một chúng ta trong cuộc sống chung cùng ở gia đình, bè bạn, xã hội chúng ta có một thái độ khoan dung độ lượng hơn, dễ dàng chấp nhận nhau hơn; và từ đó cũng dễ dàng chuyển hoá sửa đổi cho nhau mỗi khi có cơ hội. Có lẽ, nếu không như thế thì ngưỡng cửa cảm thông giữa người thiện với kẻ ác sẽ bị bít lối mãi mãi, sẽ không bao giờ mở ra để nhịp cầu tình người được bắc nối cho cuộc đời nở hoa tươi đẹp.
Cho nên, ở ý nghĩa phương Tây này - sự trung dung giữa thiện và ác, sự thanh tịnh tâm ý để chấm dứt dòng tạo tác của nghiệp, giải thoát sinh tử, đã cho chúng ta một vài bài học sống rất thiết thực. Phương Tây là phương mặt trời lặn. Chúng ta hãy làm cho tâm ý của mình lắng xuống những xao động, những tư tưởng bất chính, so đo, ganh tỵ, thù ghét - chừng nào mạng sống của những tâm ý bất hảo ấy chỉ còn có dịp khởi lên lần cuối ngay khi ta nhận ra mặt thật của nó và nó sẽ ra đi mãi mãi trong tâm hồn ta - nhường chỗ lại cho sự thương yêu đại đồng, sự hiểu biết cảm thông lớn, thì lúc đó, ta đã đi đến tận cùng bước đi thứ ba này "Thị Tây phương vị chúng sinh dĩ tối hậu thân cố". Đó là gánh nặng đã để xuống, từ đây không còn trở lại trạng thái khổ đau sinh tử nữa.
Nhưng con đường đi đến Phật quả phải là, ngoài "tự giác" còn "giác tha, giác hạnh viên mãn" - hoằng hoá độ sinh. Cho nên chúng ta tiếp tục theo chân Phật bước nữa.
* Bước thứ tư, nhìn về phương Bắc : "Thị Bắc phương, vị chúng sinh, ngã đắc A-nậu-đa-la Tam-miệu-tam-bồ-đề" (nhìn về phương Bắc, đức Phật vì chúng sinh mà thị hiện ra cõi đời ngũ trược này bằng thân người thành tựu Chánh đẳng chánh giác - và thuyết minh chân lý giải thoát khổ đau cho chúng sinh).
Phương Bắc là phương ảm đạm lạnh lùng, u tối - dụ cho những nơi chúng sinh chưa từng gặp Tam Bảo, cứ mãi theo lòng ham muốn trần tục của mình mà tạo ác nghiệp rồi lặn hụp trong biển khổ sinh tử nhiều kiếp, không biết đường thoát ly. Chư Phật, Bồ-tát - như Kinh nói, đã theo ta hoá độ, hộ trì dẫn dắt ta về nẻo thiện. Nhưng nghiệp chướng chúng ta sâu dày, lòng đam mê các thú vui dục trần quá nặng, che lấp tâm tánh, không nhận được ánh sáng tiếp độ của quí Ngài. Ở đời thường, ta thấy có hiện tượng thần giao cách cảm giữa hai người thương nhau. Mẹ thương nhớ con - con cũng luôn nghĩ đến mẹ - cho nên giữa mẹ con tuy xa cách vẫn có một mối liên hệ tình cảm vô hình, mà người này xảy ra việc hệ trọng gì thì vô hình trung, người kia cũng cảm nhận được. Chư Phật, Bồ-tát luôn thương nhớ chúng sinh với lòng đại bi bao la, bình đẳng. Vậy mà chúng ta được mấy khi nhớ đến các Ngài - họa chăng lúc hoạn nạn, nguy khốn ? ! Vì thế ở phương này - muốn nhấn mạnh sự ra đời của đức Phật bằng xương bằng thịt của thân người, rồi xuất gia tu hành và chứng quả - để cho chúng ta thấy rằng, được làm thân người là quí lắm. Theo như lời Phật dạy, thân người là lý tưởng nhất để tu hành. Ai trong chúng ta cũng đều có khả năng thành Phật - "Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh" - dụ như hoa sen trong đầm, mỗi người là một đóa sen. Đức Phật, chư vị Bồ-tát, các bậc thánh hiền là những đóa sen đã vươn ra khỏi bùn lầy ngũ dục sinh tử, chan hoà ánh sáng chân lý, nở rộ khoe sắc làm đẹp và xoa dịu đau thương cho cuộc đời. Chúng ta cũng là hoa sen nhưng chưa lên khỏi mặt nước đó thôi. Cho nên với phương Bắc này nói vì chúng sinh mà chứng Vô thượng chánh giác. Như vậy đã nói rõ ý niệm xuất hiện ở đời của chư Phật - một minh chứng hùng hồn về quả vị Phật mà trong mỗi chúng ta, ai cũng có phần -còn chần chờ gì nữa mà không lo tu tập theo lời Phật dạy.
* Bước thứ năm : "Thị hạ phương, vị chúng sinh dị dục hàng ma cố" (nhìn về phương dưới, vì chúng sinh hàng phục các loài ma).
Ma quỷ là gì nếu không phải là những gì luôn làm chướng ngại thân tâm ta, cản trở sự thăng tiến tu tập, làm thiện của mỗi người chúng ta. Có nội ma, ngoại chướng. Hãy khoan nói đến ngoại chướng. Ta hãy nhìn vào nội ma của chính mình. Đó là những con ma nhu nhược không thắng nổi lòng tư dục, ma ngạo mạn, khinh bỉ, tham lam, ganh tỵ, ích kỷ - thấy người thành công cũng đem lòng đố kỵ, thấy kẻ thế cô mà không dừng sự hiếp đáp, gặp người túng thiếu mà không biết chia sẻ bố thí dù mình thừa sức... Tất cả những thứ ma ấy ngăn không cho ta làm một cái gì lợi ích cho ai, ngoài có lợi cho riêng mình, do đó chẳng làm được một việc thiện nào dù nhỏ nhặt; tâm thức chúng ta bị ngục tù mãi trong thói vị kỷ - Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh chẳng có nghĩa là chỉ ở những nơi đâu xa - Chúng ta cần phải hiểu thêm rằng, đó là những trạng thái tâm thức trong ấy, tâm chúng ta bị sân hận thiêu đốt. Lúc ấy, mọi người, mọi vật hình như đều là kẻ thù. Người phải chịu khổ nhất là người nhiều sân hận. Đó khác nào ở địa ngục bị hoả ngục đốt cháy tâm can - đỏ mặt tía tai, tim đập liên hồi, huyết áp tăng mạnh... cả thân tâm đều thọ khổ !... Ngạ quỷ, súc sinh cũng vậy - cũng là trạng thái, trong đó tâm thức bị điều động bởi lòng tham không đáy, thiếu trí tuệ, thiếu suy luận - chỉ hành động theo bản năng - chỉ làm những gì mình muốn mà không nghĩ đến hậu quả. Đến đây ta thấy rõ hơn, một khi quy y Tam Bảo, quay về với sự sáng suốt, với lòng thương yêu thì ta đã tự cởi trói cho mình, tự cứu mình ra khỏi tam đồ địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh ấy.
Ma quỷ còn ám chỉ đến những chúng sinh cang cường khó độ. Do thế phải thị hiện ma vương, quỷ vương để nhiếp phục nó. Cho nên, ta thấy trong các chùa có ông Tiêu Diện Quỷ Vương mặt lộ vẻ dữ dằn phẫn nộ, miệng khạc ra lửa để chấn nhiếp cô hồn các chúng - dân gian gọi nôm na là ông ác - trên đầu có tượng Quan Âm Bồ-tát - đó là chỉ động cơ cũng bắt nguồn từ lòng thương yêu lớn. Chỉ có lòng thương yêu lớn mới thực sự hoá giải mọi ngông cuồng trong cuộc đời. Ta thấy nhan nhãn lắm kẻ giang hồ xuất phát từ một nỗi bất hạnh thiếu sự thương yêu nào đó từ những người thân, và trở về nẻo thiện cũng từ một sự bắt gặp tấm lòng thương yêu nào đó trên đường đời.
Nhưng độ chúng sinh thấp hèn ở phương dưới, chư Phật, Bồ-tát cũng không bỏ quên những loài tâm tánh thuần thục - Nên bước thêm một bước nữa.
* Bước thứ sáu : "Thị Thượng phương, vị chúng sinh, quy y nhân thiên cố" (Nhìn về phương trên, vì chúng sinh, làm nơi nương tựa của trời, người).
Kinh có dạy : "Nhất tâm cụ thập pháp giới". Tứ thánh lục phàm đều ở trong tâm thức của chúng ta cả. Cõi trời, cõi người cũng vậy - là những cõi trong tâm thức chúng ta. Đó là những trạng thái tâm thức mà ở đó, chúng ta đã thăng hoa rất nhiều thiện tánh trong bản thân mình - có cố gắng, có kiểm soát những tâm lý thấp hèn được ví với các cõi dưới như địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, A-tu-la. Sự sống mà luôn có ý thức như thế, là một sự sống mang lại nhiều niềm hỷ lạc cho tự thân và tha nhân. Tuy nhiên, đây không phải là sự hỷ lạc bất biến - đạt được bằng sự chứng ngộ như đức Phật và các Thánh đệ tử. Đây chỉ là những niềm hỷ lạc của các giác quan, của cảm thọ, tức là lạc thú do ảo tưởng tạo nên từ ngã chấp cố hữu. Cho nên đây là một hỷ lạc tạm bợ, do thế, có thể sa trở lại vào các cõi khổ đau - ngay khi có điều bất xứng ý xảy ra. Sự mê đắm bắt nguồn từ ngã chấp là mẫu thức chung cho sự hiện hữu của ba cõi, là nguyên nhân chúng sinh lặn hụp trong sáu đường. Chư Phật Bồ-tát có mặt trong tất cả các cõi ấy là để nêu gương, để dẫn dắt chúng sinh ra khỏi sự đoanh vây nghiệt ngã của cái Ta ấy. Ý nghĩa này đã từng được đức Phật xác quyết khi có vị Bà-la-môn hỏi Phật: "Có phải Ngài sẽ là vị Tiên, Ngài sẽ là Càn-thát-bà, Ngài sẽ là Dạ-xoa, Ngài sẽ là loài người ?". Đức Phật đã trả lời rằng : Ngài sẽ không phải là Tiên, là Càn-thát-ba, là Dạ-xoa, là loài Người; nhưng đối với những chư Thiên chưa đoạn tận các lậu hoặc, Ngài có thể là chư Thiên với các lậu hoặc đã đoạn tận, đã chặt đứt từ gốc rễ ngã chấp, không còn tái sinh nữa... Ngài có thể là Càn-thát-bà, là Dạ-xoa, là Người - nhưng là Người với các lậu hoặc đã đoạn tận.
Đó là ý nghĩa công hạnh của chư Phật, Bồ-tát hiện hữu khắp các cõi để độ thoát chúng sinh. Đến đây cũng cho chúng ta hiểu ra một điều rằng : chừng nào ta hoàn toàn thoát ly ngã chấp, chừng ấy ta thành Phật - dù chúng ta đang ở trong địa vị nào, thân phận nào đi nữa. Cho nên, bước cuối cùng :
* Bước thứ bảy, đức Phật tuyên bố : "Thiên thượng thiện hạ duy Ngã độc tôn" (Trên trời, dưới trời chỉ có Ta là trên hết).
Theo trên, chúng ta có thể hiểu nôm na rằng : nguyên do trôi nổi, lên xuống trong ba cõi sáu đường là cái chấp sâu nặng về một tự ngã trong tận cùng tâm thức chúng ta. Nhưng ý nghĩa đích thực về sự tuyên bố ấy, trong phương diện nhận thức và thực hành, chúng ta có thể rút ra hai ý nghĩa - đó là sự thật của ý nghĩa thế giới tất đàn và vị nhân tất đàn.
Theo ý nghĩa Thế giới tất-đàn, đó là sự kiện xuất hiện ở đời như một bậc tôn quý nhất, là tối thắng nhất, vô tiền khoáng hậu của đức Phật.
Kinh Tăng Chi Bộ, tập I, p.23 : "Một người, này các Tỳ-kheo, khi xuất hiện ở đời, là xuất hiện một người không hai, không có đồng bạn, không có so sánh, không có tương tợ, không có đối phần, không có người ngang bằng, không có đặt ngang bằng, bậc tối thượng giữa các loài hai chân. Người ấy là ai ? Chính là Như Lai, bậc A-la-hán Chánh đẳng chánh giác."
Và Trung Bộ Kinh 3, p.110, đã nói lên lý do vị trí tối thượng của đức Phật : "Không thể có một Tỳ-kheo, này Bà-la-môn, thành tựu một cách trọn vẹn, một cách đầy đủ tất cả các pháp như Thế Tôn, bậc A-la-hán Chánh đẳng chánh giác đã thành tựu. Này Bà-la-môn, Thế Tôn là bậc làm khởi dậy con đường trước đây chưa được hiện khởi, làm cho biết con đường trước đây chưa từng được biết, nói lên con đường trước đây chưa từng được nói, là bậc hiểu đạo, biết đạo và thiện xảo về đạo."
Giữa tất cả các tôn giáo hiện hữu trên địa cầu này, đức Từ phụ Thích-Ca Thế Tôn đã nói lên tiếng nói "duyên sinh - vô ngã" đầy chấn động - giữa các con đường đi đến hạnh phúc được biết bởi nhân loại, con đường Bát chánh đạo mà đức Phật thuyết minh là con đường thánh thiện nhất, toàn mỹ nhất để đưa tất cả chúng ta đến bờ an vui đích thực. Đó là ý nghĩa "độc tôn", "vô song" trong sự thị hiện của đức Thích-ca-mâu-ni Thế Tôn.
Với ý nghĩa Vị nhân tất đàn -Câu này còn có nghĩa là, sự sống chết của Ta đều do Ta quyết định. Cuộc đời của Ta như thế nào; sướng hay khổ; giàu hay nghèo; sang hay hèn... tất cả đều do Ta quyết định. Cho nên sau này Phật có dạy rằng : "Không cha mẹ, trời đất hay ai làm cho Ta cao thượng hay thấp hèn, chỉ có hành động của Ta làm cho Ta cao thượng hay thấp hèn mà thôi; không phải ai khác làm cho Ta ô nhiễm hay trong sạch, mà chỉ do Ta làm cho Ta ô nhiễm hay trong sạch mà thôi". (Theo HT. Thích Thiện Siêu trong "Chữ Nghiệp trong đạo Phật").
Đó là ý nghĩa chính mà đức Phật nói trong câu : "Trên trời, dưới trời chỉ có Ta là tối thượng". Ngài muốn khai thị cho chúng ta rằng, mọi hành động đúng sai, thiện ác, khổ đau hay hạnh phúc... trong cuộc đời này đều do mình làm, tự mình quyết định lấy cuộc đời của mình. Ngài đã từ bi trao lại quyền tự quyết cho con người giữa các tiếng nói từ quyền năng thần linh huyền bí mơ hồ.
Đến đây, có thể đúc kết lại rằng : Hoa sen là biểu tượng của chân lý - là chân lý hiện thực trong cuộc đời - nó hiển thị ngay trong trần thế lắm ưu phiền và hệ luỵ này. Đó là biểu tượng cho tinh thần nhập thế sinh động của Phật giáo - mà phương ngữ thường được biết là "cư trần bất nhiễm trần" - "Phật pháp bất ly thế gian giác".
Tóm lại, theo Đức Phật thì mỗi bước chân của ta cũng được nâng đỡ trên một đoá sen, mỗi bước chân là một bước sen trong cuộc đời này. Nó mang phẩm tính tinh khiết, "không bị đời thấm ướt". Người Phật tử thực hành theo lời Phật dạy thì mỗi bước chân của mình là mỗi bước sen ấy. Đi theo 7 bước hoa sen ấy là chúng ta bắt đầu một cuộc đời mới - "đi trong thế gian mà không thuộc thế gian". Và ngay lúc quy y hay đang trên lộ trình tu tập theo lời dạy thì sự an lạc liền có mặt trong mỗi bước chân của người Phật tử chúng ta - từng bước chân an lạc vững chãi đi về bến vui. Và niềm vui ấy sẽ không chỉ riêng bản thân ta hưởng thụ - niềm vui do sự thực hành theo lời Phật dạy của người Phật tử chúng ta có khả năng chia sẻ cho tha nhân, cho toàn nhân loại. Bởi lẽ, giá trị của chân lý và hạnh phúc là chung cùng, tương quan. Chúng ta hãy cùng nhau bước những bước sen để đón mừng Phật Đản !
(theo daophatngaynay)
CHÍ XUẤT TRẦN HT Thích Thanh Từ
- Details
- Geschrieben von: Tu Viện Thiện Hòa
- Kategorie: Phật Học
- Zugriffe: 5449
Buổi khai pháp hôm nay quý thầy nói về đề tài Chí Xuất Trần, nhằm nhắc nhở sách tấn đại chúng trong đầu mùa an cư để tất cả cùng thấy rõ bổn phận của người xuất gia.
I- Ý NGHĨA XUẤT TRẦN.
Tất cả người tu ai cũng có chí xuất trần? Bởi có chí xuất trần nên mới đi tu, nếu không có thì đã ở ngoài thế gian để thụ hưởng dục lạc thế tục, nên đã đi tu tức là có chí xuất trần. Sao là chí xuất trần ?
Là chí nguyện cao thượng nguyện thoát khỏi trần lao, vượt ra những trói buộc của thế tục, thoát khỏi ngục tù thế gian đã giam hãm chúng ta từ nhiều kiếp đến nay.
Chữ trần có nhiều nghĩa. Trần là bụi bặm, là ô nhiễm là che mờ sự trong sáng nên nó là cái duyên dẫn chúng ta đi trong lục đạo luân hồi, trong biển khổ sinh tử.
Chữ trần, nói cho đủ là tám mươi bốn nghìn trần lao, nói gọn là sáu trần. Người đời vì vô minh không thấy được lẽ thật của thế gian là đau khổ nên tham đắm rồi đuổi tìm những cái vui giả tạm, là gốc sinh ra các thứ phiền não.
Phật dạy chúng sinh giống như con thiêu thân, cứ thấy ánh sáng là lao vào rồi chịu chết. Cho nên ngài Hàn Sơn (Hàn Sơn-Thập Đắc) là hiện thân của Bồ Tát Văn Thù có nói bài thơ:
Ta thấy người thế gian
Bôn ba chạy đường trần.
Chẳng biết việc trong đây
Đem gì làm bờ bến.
Vinh hoa được mấy ngày
Quyến thuộc gần khoảnh khắc.
Dẫu có ngàn cân vàng
Chẳng bằng nghèo dưới rừng.
Ngài thấy người thế gian cứ lo bôn ba chạy theo con đường trần, hướng ra bên ngoài, chẳng biết được lẽ thật, quên mất cái gốc chân thật chính mình, rồi cuối cùng không biết đem cái gì làm bờ bến để nương tựa.
Mãi đuổi theo những vinh hoa phú quý hư ảo, song thời gian có được mấy ngày! Nó mỏng manh vô thường được đó mất đó. Rồi của cải vàng ngọc cũng vậy, đều là tạm bợ không thực quý. Còn bà con quyến thuộc chỉ gần gũi trong khoảnh khắc cũng đâu có bền bĩ.
Cho nên, dẫu giàu có đến ngàn cân vàng cũng không sánh được với người nghèo sống thong thả ở rừng cây vắng vẻ buông xả hết thảy, đời sống xuất trần không vướng bận. Nghèo, được nói ở đây là nghèo các duyên để sống đời xuất gia thanh tịnh.
Trong Quy Sơn Cảnh Sách, Tổ răn: “Một thuở đua vui, chẳng biết vui là nguyên nhân của khổ, nhiều kiếp đuổi theo trần chưa từng tỉnh trở lại, thời giờ qua suông năm tháng dần già, thọ dụng quá nhiều lợi hưởng càng đậm. Nhiều năm dồn tới chẳng nghĩ buông rời, chất chứa càng thêm, lo giữ gìn thân huyễn.”
Tức là, hết kiếp này đến kiếp khác đuổi theo các duyên trần mà chưa từng biết tỉnh lại. Đó mới thật là điều đau buồn. Chúng ta hiện nay cũng được chút tỉnh giác nên mới xuất gia đi tu, nếu không khéo tu lại để ngày giờ năm tháng trôi qua rồi thọ dụng quá nhiều, hưởng lợi càng đậm mà không nghĩ việc xa rời. Cứ mãi tham đắm chất chứa càng ngày càng dính mắc thêm, chỉ lo giữ gìn vóc huyễn, rồi quên mất chí xuất trần của mình.
Tổ cảnh tỉnh người tu, nếu không khéo chỉ lo đuổi theo duyên trần thọ dụng chất chứa cho nhiều, rồi tự bảo hộ rằng: Do có phước nên mới được người cúng dường nhiều. Đâu ngờ sự tham đắm thọ dụng đó càng bào mòn công đức chính mình. Cho nên, đó chỉ làm tăng trưởng lòng tham, mỗi ngày càng lún thêm trong trần mà không hay.
Chúng ta không khéo tuy thân xuất gia mà tâm thì ở trong trần, như vậy chí xuất trần ở đâu?
Ngài Phó Đại Sĩ nói về ý nghĩa xuất gia: “Xuất gia là ra nhà bỏn xẻn, ra nhà tham lam, nhà giết hại, nhà ăn nuốt chúng sinh, ra nhà trộm cướp, ra nhà trái ân bội nghĩa, ra nhà chẳng có khiêm nhường, nhà bàn tán thị phi, cho đến ra nhà tất cả những cái kết hữu vi”.
Xuất trần là như vậy chứ không phải tầm thường. Nếu không thường xuyên kiểm lại bản thân thì lâu ngày chúng ta sẽ quên chí xuất trần, rồi dính trở lại trong trần mà không biết. Như vậy, mỗi người phải thường tự kiểm hoặc khi được nhắc nhở sách tấn, phải ghi nhận và cố gắng tiến tu.
Ngài Động Sơn nói trong bài Quy Giới rất chí thiết: “Sa-môn Thích Tử thì phải lấy cái đức cao thượng làm đầu, đã dứt phan duyên nên theo đạm bạc, cắt ân ái với cha mẹ, bỏ lễ nghĩa về vua tôi, cắt tóc nhuộm áo, cầm khăn bưng bát đi vào nẻo tắt xuất trần, bước lên bậc thang nhập Thánh, trong trắng như sương, thanh tịnh tựa tuyết, rồng thần phải cung kính, ma quỷ quy hàng, vì thế phải chuyên tâm dụng ý báo đền ơn Phật”.
Sa-môn Thích tử là con dòng họ Thích, phải lấy đức cao thượng làm đầu không phải sống theo tình thế gian… Như vậy, đâu phải là tầm thường. Vì thế, phải giữ gìn giới hạnh trong như sương, sạch như tuyết. Có thế, rồng thần mới cung kính, ma quỷ sợ quy hàng.
Ngài nói nếu được như vậy thì “sinh thân của cha mẹ mới được phần lợi ích, chớ đâu được phép kết thác môn đồ, đua đòi bè bạn, giữ việc bút nghiên, trổ tài văn chương, cứ khư khư danh lợi, tất bật hối hả chạy theo trần tục mà chẳng nghĩ đến giới luật, phá hết oai nghi, để chuốc lấy sự thoải mái trong một đời, rồi phải đắng cay trong nhiều kiếp, uổng công mang danh Phật tử”.
Tổ nhắc chúng ta nếu muốn đền đáp được phần nào công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ và ơn tái tạo giới thân huệ mạng của Phật Tổ thì phải nỗ lực. Nếu như chỉ lo kết môn đồ bè phái, trổ tài văn chương và ôm chặt danh lợi, tất bật chạy theo trần tục mất hết oai nghi giới luật. Như vậy, là chỉ bám lấy sự thoải mái trong đời này, mà quên mất sự đắng cay khổ đau trong nhiều kiếp.
Ngài nói người tu không khéo thì “uổng công mang danh Phật tử”. Chúng ta mang danh là Thích tử, là đệ tử Như Lai nhưng lại chưa hành đúng theo những gì Phật dạy, nên Ngài nhắc nhở. Do đó, người tu phải có chí xuất trần. Xuất trần tức là sống thanh tịnh, giải thoát, đáng cho người trời cung kính, quỷ thần nể phục, chớ đâu thể buông lung, lo hối hả chạy theo trần tục, quên mất đạo nghiệp giải thoát của chính mình. Điều đó thật đáng hổ thẹn.
Thiền sư Bạch Dương Thuận dạy chúng: “Nhiễm duyên dễ mắc, đạo nghiệp khó thành, chẳng hiểu trước mắt muôn duyên sai biệt. Chỉ thấy gió trong cõi trần ào ạt làm cho rừng công đức tiêu tàn, lửa tâm bừng bừng thiêu hết mầm móng bồ-đề. Nghĩ về đạo giống như nghĩ về tình thì hẳn thành Phật đã lâu rồi”.
Ngài nói những lời rất chí thiết. Duyên thế tục dễ nhiễm mắc còn đạo nghiệp thì khó thành. Bởi vì, ngoài đời chúng ta đã có thói quen đó dù nay ở trong đạo nhưng nhiều khi những duyên cũ rất dễ kéo lôi.
Ví dụ như học kinh học luật thì buồn chán nên học lâu thuộc, còn đọc chuyện tiểu thuyết lại thấy thích thú, đọc hoài không biết mệt. Khi nghe giảng kinh nhiều khi nghe quen rồi chán, nhưng khi coi phim kiếm hiệp thì xem không biết mỏi, dù không cố gắng nhớ mà vẫn huân, rõ ràng cái duyên nhiễm dễ mắc còn đạo nghiệp khó thành.
Do vì mới tỉnh ngộ nên đạo nghiệp chưa quen, tu khó thành. Dù chúng ta cố gắng công phu nhưng vẫn trầy trật lên xuống, muốn cho nó quen mà không được, còn cái kia không muốn mà nó cũng quen, nên nói là dễ mắc dễ nhiễm.
Lại nữa, trước mắt mỗi người nhiều duyên sai biệt, nhích một chút là nó dẫn đi liền. Chúng ta tu hành năm mười năm không khéo khi niệm bất giác khởi, gió trần thổi tiêu rừng công đức, có khi cởi áo ra đời. Còn khi lửa sân hận nổi lên đốt cháy mầm bồ-đề chính mình.
Câu sau Ngài nói thật chí thiết: “Nghĩ về đạo nếu giống như nghĩ về tình hẳn thành Phật đã lâu rồi”. Chúng ta phải nghiệm kỹ để khéo ứng dụng. Nếu như nghĩ về đạo mà được như nghĩ về tình thì thành Phật lâu lắm rồi. Nghĩ về tình, lôi kéo tâm ngày đêm, có khi không muốn nghĩ mà nó cũng nghĩ, không cần cố gắng mà nó cũng nghĩ.
Nhiều khi chúng ta lên bồ đoàn tọa thiền, lúc đó đáng lẽ phải nghĩ về đạo nhưng rồi tình cũng xen vào. Nếu nghĩ về đạo mà được như nghĩ về tình thì công phu thành tựu dễ dàng. Vì khi nghĩ về đạo thì quên trước quên sau lúc được lúc mất, còn nghĩ về tình thì không cần dụng công gì hết mà cũng thành sâu đậm.
Vì vậy, người tu phải khéo chuyển ngược trở lại, thay vì nghĩ về tình thì luôn nghĩ về đạo. Nếu chúng ta luôn nghĩ về đạo thì đâu có phiền não nhiều. Người hay phiền não thì biết là còn nghĩ nhiều về tình hơn là nghĩ về đạo, như nghĩ về đạo nhiều hơn thì đâu hay phiền não. Phải khéo chỉnh đốn, phải hổ thẹn để chuyển trở lại. Nếu không, lâu ngày tình mạnh hơn đạo sẽ dẫn chúng ta đi xuống. Một câu nói của người xưa, nhưng khi nghe rồi suy gẫm, thật là thấm thía.
Thời Tống, Thiền sư Từ Thọ ở Đông Kinh một hôm sau buổi tọa thiền dạy chúng: “Các ông nhất thiết phải xa danh và lợi lấy khổ nhọc làm vui, tâm danh lợi thế gian giảm xuống thì niệm đạo thanh tịnh tự nhiên tăng trưởng. Như Hoà Thượng Biển Đảm Sơn suốt đời ăn trái lịch để sống (trái rừng). Còn Đại sư Huyền Giác không ăn rau trồng, bởi trồng thì phải cuốc đất sợ tổn thương tiểu trùng, đồng thời kính trọng giọt mồ hôi khổ nhọc của người nông phu. Pháp sư Huệ Hưu ba mươi năm chỉ một đôi giày, gặp đất bằng thì đi chân đất. Các ông hiện tại y phục đầy đủ, thọ hưởng đủ thứ chưa đói đã ăn, chưa lạnh đã mặc thêm áo, chưa dơ đã tắm, chưa buồn đã ngủ. Như vậy thì đường sinh tử chưa thấu rõ, cấu nhiễm chưa trừ tận, hoặc chướng không đoạn lấy gì để tiêu của đàn na tín thí”.
Ngài dạy: Các ông phải lìa xa danh lợi…, chớ có lấy cái sung sướng thoải mái nhất thời làm vui, cần chịu khó, chịu khổ nhọc để tiến tu thì tâm danh lợi thế gian mới giảm xuống. Mà tâm thế gian giảm thì niệm đạo thanh tịnh tự nhiên được tăng trưởng.
Dẫn hạnh ngài Huyền Giác chỉ ăn rau rừng không ăn rau trồng tưới. Ngài nói trồng thì phải cuốc đất mà cuốc đất là làm chết tiểu trùng, tổn thương sinh mạng chúng sinh, thêm nhọc nhằn khổ công người trồng trọt. Khi đi qua chỗ gò, đất sỏi khó khăn thì Ngài mới mang giày, còn những nơi bằng phẳng thì Ngài cởi giày đi chân trần, cho nên ba mươi năm mà đôi giày chưa hư.
Chúng ta kiểm lại xem có được giống như vậy không? Đúng theo Luật thì ngày ăn một bữa, còn ngày nay có đàn na thí chủ cúng thức ăn dư sẵn, đôi khi hơi nhiều được phát về tăng đường, lâu lâu đi ra đi vô buồn bốc bỏ vào miệng một chút, như vậy không phải là chưa đói mà đã ăn hay sao? Cũng gọi là ăn phi thời. Còn chưa lạnh mà đã mặc thêm áo, chưa dơ đã tắm, chưa buồn ngủ đã ngủ. Ngài bảo người xưa tu hành miên mật, còn các ông hiện tại y phục đầy đủ, thọ hưởng cũng nhiều, chưa đói đã ăn rồi. Nếu mà như vậy thì đường sinh tử làm sao thấu rõ, cấu nhiễm cũng chưa trừ, não phiền chưa đoạn thì lấy gì mà tiêu của đàn na tín thí. Những lời nhắc nhở thật là chân thiết.
Lời Ngài nhắc có đúng với bệnh của chúng ta hiện nay không? Đối với chí nguyện xuất trần có khế hợp được gì? Xuất trần mà như vậy hay sao? Nói xuất trần mà có thực xuất hay chưa? Hay là mình xuất trần này rồi vào trần kia? Như vậy, chúng ta vẫn y như cũ, vẫn bụi bặm đầy mình, có thấy xấu hổ hay không?
Cho nên phải xem, quán trở lại chí nguyện xuất trần của mỗi người với sự thật trong cuộc sống hằng ngày như thế nào? Để rồi thúc liễm bản thân tiến tu.
Xuất trần là một ý nghĩa quan trọng, theo chúng ta trong suốt cuộc đời này, chứ không phải một ngày một bữa lúc có lúc không. Mà đúng ra thì không phải chỉ một đời này mà kéo dài nhiều đời khác nữa cho đến thành Phật thôi! Đó là ý nghĩa thứ nhất của xuất trần.
2- SINH TỬ SỰ ĐẠI.
Sinh tử là việc lớn, không phải là chuyện đùa chơi. Nhiều khi học lý nói: “ Ừ! Sinh tử như mộng” hoặc “sinh tử nhàn nhi dĩ”, tức sinh tử nhàn mà thôi! Tuy nói như vậy mà chúng ta chưa thật như vậy. Chúng ta phải biết lúc nào nên nói và lúc nào chưa nên nói. Chuyện này không phải là chuyện đùa chơi hoặc là chuyện lý luận trên miệng.
“Sinh tử là một việc lớn” Câu này không biết phát xuất từ đâu, nhưng đọc Kinh Pháp Bảo Đàn thì thấy khi Ngũ Tổ bảo môn đệ trình kệ thì Ngài có nhấn mạnh điểm này: “Ta nói cho các ông rõ đời người “sinh tử là việc lớn”, các ông trọn ngày chỉ cầu phước điền mà chẳng cầu ra khỏi biển khổ sinh tử. Nếu mà tự tánh đã mê thì phước điền đâu thể cứu được. Mỗi người hãy đi rồi tự xem lại trí tuệ chính mình, nhận lấy tánh Bát nhã ở nơi bản tâm mình, mỗi người hãy tự làm một bài kệ rồi trình cho ta xem. Nếu tỏ ngộ được đại ý thì ta sẽ truyền y pháp cho người ấy làm Tổ đời thứ sáu”.
Ngũ Tổ nhấn mạnh đời người sinh tử là việc lớn cần giải quyết cho xong chớ chỉ lo cầu phước điền. Đây là điểm cần phải nhớ, phải ý thức cho đậm. Phải nhớ “việc mình chưa sáng cũng như đưa đám tang cha mẹ”. Nghĩa là việc mình chưa sáng thì phải băn khoăn, khắc khoải, nôn nóng như đưa đám tang cha mẹ, chứ không nhàn nhã được. Đời người sinh tử là việc lớn, khi chưa giải quyết xong thì chưa thể nhàn nhã qua ngày, cũng như chưa thể yên tâm ăn ngủ. Do đó, người xưa khi chưa giải quyết được sinh tử thì quên ăn quên ngủ.
Việc này, tôi cũng có kinh nghiệm. Ngày trước, khi mới hạ thủ công phu thì tôi cũng như vậy. Khi cảm nhận được sự vô thường, sự chết bức bách kề bên, lúc đó có cái gì thúc đẩy ghê sợ lắm, tưởng chừng như không còn đủ thời gian để mà tu nữa. Đây, không phải chỉ hiểu lý vô thường theo kinh điển Phật dạy, mà đây là sự cảm nhận sâu trong lòng. Cho nên, hạ thủ công phu phải quyết chí, quên ăn quên ngủ, như Lục Tổ nói “giống như người ngơ ngơ”. Nhiều khi gặp bà con khách xa đến, liền ngó lơ đi không thèm chào hỏi. Nhờ vậy, qua thời gian dài thiết tha công phu, mới thực sự có kết quả chứ không phải dễ dàng.
Ở đây Tổ nhắc: Sinh tử là việc lớn phải có sự thức tỉnh nơi mình. Có khi nhìn các vị cứ lo ngủ gà ngủ gật, bàn ăn bàn uống món này món kia thì thấy run sợ, vì lơ là cái chuyện lớn của mình đi. Phật dạy: “Sinh tử giống như ngục tù”. Ngục tù sinh tử này đã nhốt chúng ta từ vô lượng kiếp đến nay. Xét kỹ thật đáng sợ chứ không phải tầm thường. Nếu chỉ nói trên lý “sinh tử như mộng”. Như mộng khi nào mình đã thấu suốt được nó. Cho nên, quán kỹ lại mỗi một lần sinh tử là một lần chồng thêm cái mê cách ấm cho mình, qua một lần sinh tử thì quên một lớp, qua một lần nữa thì quên một lớp nữa.
Như vậy qua một lần sinh tử thì thêm một lớp quên, rồi càng tạo nghiệp sâu thêm, có khi quên mất gốc. Có những người chừng hai mươi hai mấy tuổi sớm phát tâm xuất gia vào chùa, nhưng do sinh vào gia đình tạo nghiệp sát sinh như lưới cá v.v..,thì lúc nhỏ ở gia đình người này cũng đã tạo thêm nghiệp.
Quán kỹ rồi thấy sợ. Hôm nay chúng ta ngồi chung ở đây, ngày mai bỏ thân này rồi đi đâu? Không biết có còn xuất gia tu hành, còn được nhắc nhở nhau tiến tu như vầy nữa hay không? Vì vậy, Quốc Sư Vô Nghiệp có dạy: “Lúc lâm chung mà còn một mảy tình phàm lượng thánh chưa sạch, một chút bụi tư niệm chưa quên thì theo niệm thọ sanh. Năm ấm nặng nhẹ gá vào thai lừa bụng ngựa cho đến chốn địa ngục. Một phen vào lò lửa vạc sôi thì những điều ghi nhớ nghĩ tưởng, kiến giải trí tuệ từ trước nhất thời đều mất hết, rồi y như trước trở lại làm thân con muỗi con kiến.”
Ngài dạy đến lúc lâm chung mà tình phàm lượng thánh chưa hết, vẫn còn chút mảy bụi tư niệm chưa quên thì liền theo niệm đó mà thọ sanh. Ví dụ như lúc chúng ta sắp chết mà còn nhớ tiếc một cái gì đó thì nguy, hoặc lúc đó mà còn một chút niệm bực tức thì liền theo đó mà thọ sanh. Rồi theo năm ấm nặng nhẹ mà đi vào các đường thọ sanh. Nặng thì vào thai lừa bụng ngựa hoặc vào chốn địa ngục dầu sôi… Lúc đó, quên hết những điều ghi nhớ, những kiến giải trí tuệ từ trước, lý thiền lý đạo, thảy đều mất hết. Lúc đó không thể tự nói “Tự tánh của ta vốn thanh tịnh, địa ngục giống như là mộng” mà chỉ nhớ cái khổ thôi! Rồi y như trước làm thân con muỗi, con kiến.
Chúng ta buông lung thân tâm, tu không khéo một phen đi lạc vào đó rồi thì nguy hiểm. Đây không phải nói để hù dọa mà đó là lẽ thật. Trong kinh Pháp Cú có câu chuyện: Lúc đức Phật ở tinh xá Kỳ Viên, ngài dạy các Tỳ kheo phải luôn tinh tấn tu tập đạo nghiệp để dứt trừ mê mờ, giải thoát các khổ. Có vị Tỳ kheo tâm trí không được thông suốt, cả ngày ăn xong rồi vào phòng đóng cửa nằm ngủ, chỉ quý cái thân huyễn mà không lo tu. Vì không biết mình chỉ sống được bảy ngày nữa thôi. Phật biết sau khi chết ông sẽ đọa vào đường dữ nên thương xót, mới đi đến phòng lúc ông còn đang ngủ, Ngài gõ cửa đọc bốn bài kệ để cảnh tỉnh:
Bài thứ nhất
Ôi! hãy dậy đừng mê
Loài rận ốc trai mọt.
Ẩn mình trong bất tịnh
Mê hoặc chấp làm thân.
Phật cảnh tỉnh: Hãy dậy đừng có mê, giống như loài rận loài trai loài mọt sống trong bóng tối. Con rận sống trong quần áo của người, trong bóng tối. Con trai nó khép hai cái vỏ vào cũng là sống trong bóng tối, loài mối mọt cũng vậy. Chúng đều ẩn mình trong bất tịnh.
Bài thứ hai
Đâu có bị chém thương
Mà tâm như trẻ bệnh.
Đối trước bao ách nạn
Lại tham đắm ngủ nghê.
Tức là, đâu phải người bị chém bị thương tật gì, mà tâm như đứa trẻ bị bệnh cứ lo ngủ.
Bài thứ ba
Biết nghĩ không buông lung
Lo học đạo từ bi.
Do đó không ưu sầu
Thường nhớ trừ vọng tưởng.
Đây là đánh thức. Người mà khéo biết nghĩ thì không có buông lung, lo học đạo, do đó mà không có ưu sầu.
Bài thứ tư
Chánh kiến luôn trau dồi
Là ánh sáng giữa đời.
Sinh ra phước đầy đủ
Chết không đọa ác đạo.
Khi ấy, Tỳ kheo đang ngủ nghe bài kệ giật mình thức dậy, trông thấy Phật trước cửa hoảng sợ đứng dậy đảnh lễ. Phật mới hỏi: -Ông có biết kiếp trước của ông là gì không?
Vị Tỳ kheo thưa :
-Dạ ! Bạch Thế Tôn con vì ấm cái (ấm là năm ấm, cái là ngũ cái) nó che ngăn đâu thể biết được.
Phật bảo :
- Vào thời Đức Phật Tỳ-bà-thi, ông đã từng xuất gia nhưng vì tham lợi dưỡng, lo ngủ nghỉ, cung phụng cái thân huyễn này chẳng chịu tu hành, không nhớ lẽ vô thường. Khi chết, đọa làm loài rận năm chục ngàn năm, kế đó sinh vào loài trai loài sò và sâu mọt ở trong cây, mỗi loài cũng năm chục ngàn năm. Bốn loài này nó đều sinh trưởng trong bóng tối, nó thích chỗ kín đáo tối tăm lấy đó làm nhà, không thích ánh sáng giống như là mê ngủ thích chỗ tối tăm. Quý vị nghĩ nếu chúng ta đọa với khoảng thời gian như vậy thì sao? Năm chục ngàn năm mỗi loại như vậy, đến lúc thoát ra thì chỉ thích bóng tối. Ông nhờ hết nghiệp sinh làm người, được làm Sa-môn thì sao không biết nhàm chán lại ham ngủ?
Khi ấy, vị Tỳ kheo này nhờ uy lực của Phật nhớ lại đời trước của mình. Bây giờ có ai trong đây nhớ lại đời trước của mình chừng năm đời đã từng làm trâu làm heo thì chắc tu tiến lắm. Còn ở đây, nương oai lực của Phật vị Tỳ-kheo nhớ mình năm chục ngàn năm làm rận, năm chục ngàn năm làm trai sò sâu mọt nên vị Tỳ kheo ấy quá hoảng sợ. Ông hổ thẹn sợ hãi tự trách mình và nỗ lực quán xét tu hành nhờ vậy mà ngay hiện đời trừ sạch ngũ cái, chứng A-la-hán.
Đó là một bài pháp rất chí thiết với chúng ta.
Thân này là thân huyễn, vậy mà cứ nuôi dưỡng cưng chìu cung phụng cho nó. Lo cho nó ngủ tức là cưng chìu nó chứ gì? Rồi cho nó ăn uống, nó đòi hỏi ăn uống thế này thế kia, tức là cung phụng cho nó. Nhưng mà nó là cái thân huyễn, cuối cùng vì nó mà chúng ta bị sa đọa thì thật là đau đớn. Cho nên, tu đạo giác ngộ là phải đi đến chỗ sáng, không đi vào chỗ tối. Vậy sao có người vẫn thích ở trong bóng tối? Đó là kiểm để nhắc nhở tất cả đừng lo cưng chiều cái thân huyễn, dung dưỡng nó mà không lo tu hành để thành tựu chí xuất trần của mình.
Khi nghĩ đến con đường sinh tử, chúng ta không thể nào xem thường mà sinh tâm tự mãn. Hiện tại chúng ta đang mở mắt tỉnh táo hoàn toàn đây, mà đối với tình phàm vẫn chưa làm chủ được, thì khi bệnh hoạn đau yếu nghị lực nó cũng yếu theo, lúc nhắm mắt sẽ ra sao? Ít ai chịu nghĩ đến điều này. Điều mà tất cả chúng ta rồi cũng sẽ đi tới!!!
Thiền sư Đại Huệ từng bảo:« Như tôi lúc mà chưa ngủ thì những điều Phật dạy, những điều Phật ngợi khen tôi y theo đó mà làm. Điều Phật quở trách thì chẳng dám vi phạm. Trước kia y chỉ theo thầy tự thực hiện công phu được chút sở đắc thì lúc tỉnh thức đều được thọ dụng. Nhưng mà đến lúc lên giường mơ màng nửa thức nửa ngủ thì làm chủ tể không được. Mộng thấy vàng bạc thì mừng rỡ vô hạn, mộng thấy người dùng dao gậy bức hiếp và các cảnh giới dữ dằn thì thấy sợ hãi kinh hoàng. Tôi tự nghĩ thân này hãy còn chỉ có ngủ mà làm chủ không được, huống là đất nước gió lửa phân tán, các thứ khổ bừng dậy thì làm sao chẳng bị lôi kéo. Nghĩ đến đây mới bắt đầu lo lắng.»
Chính ngài Đại Huệ mà còn than, lúc tỉnh thức thì được thọ dụng, nhưng khi lên giường ngủ mơ mơ màng màng thì làm chủ không được. Ngài Đại Huệ tự thực hiện công phu có chút sở đắc còn như vậy, chúng ta có như vậy không? Thật chưa có công phu gì? Vậy thì khi sắp chết, lúc mà đất nước gió lửa phân tán, các thứ khổ nó kéo nhau tới thì chúng ta sẽ ra sao? Nghĩ đến đó rồi mới thấy lo lắng.
Cho nên, mỗi người chúng ta phải tự xét lại xem có đáng lo sợ hay không? Trong lúc tỉnh táo có ai làm chủ thực sự chưa? Đó là chưa nói đến lúc ngủ. Nếu chưa được vậy thì đâu tránh khỏi bị sinh tử dẫn đi. Rồi chí xuất trần của chúng ta có bảo đảm thẳng đường mà đi không? Hay chỉ ngày qua ngày vẫn thấy bình thường không lo tu hành.
Tổ Xà Dạ Đa ở Ấn Độ thuật lại: «Ngài đã năm trăm đời làm chó, chỉ có hai lần được ăn no mà lại bị nạn, bị chặt đầu». Thật đáng sợ. Cũng như ngài An Thế Cao độ sư huynh. Vị sư huynh là người thông suốt kinh điển nhưng tâm hay sân hận. Đi khất thực mà gặp thí chủ nào cúng dường không vừa ý thì nổi giận. Ngài An Thế Cao khuyên hoài không được. Nên nói : Ông hãy cố gắng nếu không về sau sẽ đi đường xấu. Quả thật sau vị sư huynh chết làm thần miếu ở Cung Đình Hồ tại Trung Hoa. Tuy là thần miếu nhưng thân là đại mãng xà. Ngài An Thế Cao nhớ tình đồng đạo, nên đến độ thoát cho.
Vì vậy, mỗi lần nghĩ đến kiếp luân hồi này, rồi kiểm lại đời tu của mình chưa có công phu gì đáng kể, đạo nhãn cũng chưa sáng thì quảû bất an vô cùng, chứ không phải dễ!
Trong bài Tiểu Tham của Thiền sư Ỷ Ngộ ở Pháp Xương, dạy : « Nghiệp thức mênh mông không gốc có thể tựa, ăn năn lại chẳng kịp. Thọ báo theo duyên thay đầu đổi mặt đều chưa thể định được. Đâu chẳng thấy các bậc Bồ-tát học Bát-nhã ngày trước chớ có tự lừa dối chính mình phải rất cẩn thận, còn một mảy may chẳng hết là chưa thoát khỏi luân hồi. Một chút tình niệm chưa quên đều theo đó mà chìm đắm. Ông muốn biết loài mang lông đội sừng chăng? Chính là ông lúc bình thường làm chủ tể tầm bậy. Còn ông muốn biết địa ngục rút lưỡi không? Chính là lừa dối trong đường mê. Ông muốn biết băng lạnh vạc dầu sôi ư? Chính là ông lạm dụng của tín thí. Ba đường dữ tám nạn khổ đều là tự tâm ông làm ra hết. Chỉ vì con mắt đạo chưa sáng mới thành ra như vậy!»
Tức là nghiệp thức mênh mông không bờ mé, nếu chúng ta tu không khéo trôi theo nó thì ăn năn không kịp. Rồi theo duyên thọ sanh, lúc đó thay đầu đổi mặt, bây giờ mang thân này nhưng không biết qua đời sau mang thân nào? Đừng nghĩ loài mang lông đội sừng nó ở đâu xa, chính là chúng ta lúc bình thường làm chủ tể sai lầm, hành động sai lầm nên không khéo đi vào các loài đó. Nếu lúc ra đi còn một tình niệm chưa quên bị nó dẫn đi, đến lúc đó thì không thể nói lý, không thể nói sinh tử như mộng hoặc tự tánh Niết-bàn. Trong khi chúng ta hiện nay tình niệm còn nhiều, nghiệp thức còn khá mà không lo tận tâm tinh tấn để công phu thì sẽ đi đến đâu? Rồi ý nghĩa xuất trần nó sẽ được thành tựu ra sao? Đó là điều mà tất cả chúng ta đều phải kiểm lại. Cho nên chúng ta phải quán kỹ, nhớ kỹ việc sinh tử là việc lớn chứ không phải là chuyện tầm thường.
3-THỆ NGUYỆN GIẢI QUYẾT CHO XONG VIỆC SINH TỬ.
Chúng ta đã biết rõ ý nghĩa xuất trần, nỗi khổ của kiếp sinh tử, sự trói buộc của đám trần lao hệ lụy này rồi, thì chúng ta không thể tu lừng chừng cho qua ngày tháng. Chúng ta không thể sinh tâm buông lung, dễ duôi để phước ngày càng tổn, càng mỏng dần. Nên nhớ rằng: Chớù có xem thường việc nhỏ. Một ngày mình buông lung một chút là nó tổn phước một chút, cộng lại nhiều lần thì phước tổn sâu. Khi tổn phước rồi sẽ ảnh hưởng đến công phu tiến đạo, đến đạo tâm của mình. Cho nên ý thức được trách nhiệm bổn phận, ngay đây chúng ta phải phát tâm mạnh mẽ thề giải quyết xong vấn đề sinh tử này, chứ không thể dễ duôi được.
Người xưa có câu : «Đời này chẳng thẳng đời này độ, còn đợi đời nào mới độ thân». Nghĩa là ngay đây không chịu độ mà còn hẹn chờ đợi đến đời nào nữa. Đợi đến đời sau thì đời sau ai vào đó để độ? Cũng là mình thôi chứ đâu ai vào đó độ thay cho mình, vậy thì tại sao ngay đây không độ liền đi? Khỏi phải tốn thời gian thêm nữa. Trong khi qua một thời gian thì nó tạo thêm nghiệp mới nữa. Ngay đây độ liền có phải là bớt ít thời gian hơn không? Nếu còn hẹn đời sau, chính là tạo cơ duyên cho tâm giải đãi. Khéo là phải ngay đây bắt tay vào liền chứ không có đợi chờ.
Hoà Thượng Thủy Am dạy chúng: «Xưa các ngài Đại Ngu, Từ Minh, Cốc Tuyền, Long Nha kết bạn với nhau để cùng đến tham vấn ngài Phần Dương. Tức là ngài Phần Dương Thiện Chiêu, ngài ở vùng đất Hà Đông, nơi đó rất lạnh. Một số người ở đó chịu không nổi bỏ đi, chỉ có ngài Từ Minh là người có chí học đạo ngày đêm không lười mỏi. Ban đêm ngồi thiền buồn ngủ ngài bèn lấy cái dùi tự đâm vào thân và than rằng: Cổ nhân vì việc lớn sinh tử mà không ăn không ngủ còn ta là hạng người nào mà dám phóng túng buông lung. Lúc sống thì vô ích lúc chết không để tiếng tăm về sau. Ấy là tự bỏ mình vậy.»
Ngài Từ Minh tự nhắc mình, người xưa vì việc lớn sinh tử là như vậy đó. Cho nên, đâu thể hèn yếu so đo tính toán chần chừ để nuôi lớn tâm sinh tử thêm. Xưa các ngài chỉ một đao mà chặt đứt không ngó lại, phải dũng mãnh như vậy để mà tiến tới. Chính trong bản Thanh Quy của Thiền viện, Hòa Thượng cũng khẳng định điều đó :
Thứ nhất là tính dứt khoát. Dứt khoát tức là đời ra đời đạo ra đạo, tu phải đến nơi đến chốn, không có thái độ lưng chừng mà phải quyết tu đến sáng đạo, phải dứt khoát như vậy.
Thứ hai là tính kiên quyết. Dù khó khăn chướng ngại do ngoại cảnh hay bản thân tạo ra đều khẳng định vượt qua, kiên quyết thực hiện kỳ được giải thoát viên mãn mới thôi. Không đổ thừa là tại ngoại cảnh làm cho khó tu rồi chuyển đổi thoái tâm, hoặc do bệnh hoạn gì đó hay do cái gì trở ngại, đều khẳng định vượt qua hết, phải tu đến giải thoát viên mãn mới được, kiên quyết dứt khoát.
Ngài Hám Sơn cũng từng nhắc nhở: «May thay trong kiếp này nhờ sự trợ giúp và chỉ dạy của Chân sư, hạt giống Bát-nhã ở trong chư vị có cơ tăng trưởng. Nhờ thế lòng mộ đạo và quả quyết của chư vị được thức tỉnh, nhưng chư vị phải nhận thức rằng không dễ gì nhổ được, lấp được các gốc rễ luân hồi đã ăn sâu trong chư vị từ thời vô thủy. Công việc này không phải là tầm thường, chỉ có những người có ý chí và sức mạnh, đủ can đảm để mà đảm đương cái gánh nặng như vậy. Và dấn thân tới trước không chút do dự hay rụt rè thì mới vào được đạo.»
Tức là chúng ta cũng còn có duyên tốt trong kiếp này, nhờ được các bậc Chân sư nhắc nhở đánh thức cho nên hạt giống Bát-nhã trong tâm mới có cơ hội nẩy mầm, tăng trưởng nhưng không phải ngay đó sạch hết các gốc luân hồi. Vì gốc luân hồi đã ăn sâu từ vô thủy rồi không phải một lúc mà sạch hết. Phải là những người có sức mạnh và ý chí can đảm, sẵn sàng dấn thân tới trước mới mong vào được đạo, nào phải việc tầm thường.
Qua đó, chúng ta mới thấy chư Tổ đều như nhau, luôn luôn thúc đẩy người tu phải có sự quyết tâm mạnh mẽ để tinh tiến vượt lên, chứ không thể lừng chừng hẹn nay hẹn mai. Chúng ta mê lầm huân tập từ vô thủy kiếp cho đến ngày nay, đâu thể một ngày hai ngày mà dứt trừ được. Tuy nay chúng ta cũng có được cái duyên tốt, được thầy bạn tốt nhắc nhở đánh thức hạt giống Bát-nhã trong tâm, để có cơ hội phát khởi tăng trưởng, nhưng những nghiệp tập nó đâu có một lần mà hết được. Thỉnh thoảng nó sống dậy, do đó chúng ta phải có một ý chí sức mạnh vươn lên, sẵn sàng tiến tới chứ không thể ỷ lại, không thể chần chờ. Phải có sự quyết tâm thề nguyện giải quyết xong việc lớn sinh tử, không phải vào chùa an nhàn chỉ một thời sám hối hai thời ngồi thiền vậy là đủ trả nợ. Mà chúng ta phải giải quyết xong việc lớn sinh tử này, phải sáng tỏ được đạo, chứ không phải chỉ bấy nhiêu đó đủ rồi.
4- CHỈ THẲNG TRỞ VỀ NGUỒN TÂM.
Trước kia chúng ta vốn từ tâm mê mà tạo nghiệp vào sinh tử, thì ngày nay cũng phải từ tâm mà giải quyết sinh tử chứ không con đường nào khác. Chúng ta theo dòng tâm chạy ra ngoài đuổi theo duyên trần, theo cảnh là quên mất cội nguồn chân thật nơi mình, đó là đi vào sinh tử luân hồi là theo chiều mê, nhà thiền gọi là mất trâu. Tức theo duyên theo cảnh rồi quên mất trâu. Từ một niệm bất giác ban đầu đến nay, chúng ta đã đi theo con đường sinh tử mê lầm chịu nổi chìm, lên xuống ở trong biển sinh tử trầm luân quá lâu. Nếu kiểm lại thấy thật là khủng khiếp chứ không phải thường. Có khi chúng ta nổi lên một lúc rồi chìm xuống, cứ lẩn quẩn trong đó kiểm lại thấy rất đáng sợ.
Nay chúng ta được duyên tốt, phải mau tỉnh ngộ trở về. Tuy gọi là mất trâu quên gốc nhưng mà sự thật dấu vết nó vẫn còn. Nghĩa là chúng ta vẫn còn có thấy có biết, còn có thấy biết tức là vẫn còn có tâm, như vậy dấu vết vẫn còn đó. Chúng ta khéo theo dòng thấy biết này để trở về, trước kia theo dòng thấy biết này chạy theo duyên ra ngoài, đi vào sinh tử quên gốc; Bây giờ cũng theo cái dòng thấy biết này quên duyên để đi ngược trở lại cội nguồn, ra khỏi trần lao sinh tử.
Một hôm trời đang mưa, Thiền sư Cảnh Thanh hỏi vị tăng :
- Bên ngoài là tiếng gì?
Vị tăng thưa:
- Tiếng mưa rơi.
Ngài bảo:
- Chúng sinh điên đảo quên mình theo vật.
Vị tăng thưa:
- Còn Hoà Thượng thì thế nào?
Ngài bảo:
- Vẫn chẳng quên mình.
Theo như chúng ta cũng sẽ đáp như vậy. Hỏi tiếng gì? Đang mưa thì đáp tiếng mưa rơi. Nhưng bị ngài quở ngay: Chúng sinh điên đảo quên mình theo vật.
Chỉ một chút thôi mà xem như hai khung trời cách nhau rất xa. Cũng một chút đó mà chuyển đổi cả một chuỗi dài vô lượng kiếp lầm mê. Cũng ngay cái mê lầm này mà chúng ta nghe theo tiếng, tức quên mất mình. Khi hỏi tiếng gì? Chỉ nghe tiếng mưa rơi thôi, quên mất chính mình ở đây, quên sự hiện hữu đang nghe rõ ràng vì chỉ nhớ cái tiếng, đó gọi là theo trần, lang thang ở quê người là vào luân hồi.
Thiền sư Cảnh Thanh cũng nghe nhưng khi nghe chẳng quên mình, không chạy theo tiếng mưa rơi vẫn có mặt sự hiện hữu sáng ngời đó. Nghe mà vẫn nguyên vẹn là nghe, đó gọi là trở về nguồn tâm. Ngay đó chúng ta hiện ở quê nhà, còn nhớ theo tiếng thì ở quê người. Cho nên hàng tỉ tỉ kiếp đến nay, chúng ta mới nghe được cái điều kỳ diệu này đâu phải là việc dễ dàng. Nghe được điều này là một nhân duyên hy hữu với mình chứ không phải tầm thường. Nếu không nghe được những điều này thì chúng ta chỉ nghe những điều ở thế gian thôi. Tức là ở đời cứ nghe những chuyện theo duyên theo cảnh, chứ không bao giờ nghe được cái chuyện trở về này. Cho nên chúng ta phải thật sự để tâm xét kỹ, gọi là trăm kiếp ngàn đời không dễ gì gặp. Phải khéo quán để trở về. Tất cả ai đều cũng có đủ cơ hội để trở về chứ không thiếu.
Cũng ý nghĩa này, Thiền sư Tỉnh Niệm ở Thủ Sơn, nhân một đêm có vị tăng đi vào thất của Sư, Sư hỏi:
-Ai ?
Vị tăng im lặng không đáp.
Sư bảo:
-Ta đã biết được ngươi rồi. Ngay đó ông tăng cười. Sư liền bảo:
- Lại đâu phải người nào khác (tức đã lộ ra rồi). Rồi Sư nói bài kệ :
Khinh khinh đạp địa khủng nhân tri
Ngữ tiếu phân minh cánh mạc nghi.
Tri giả chỉ kim mãnh đề thủ.
Mạc đãi thiên minh thất khước kê.
Dịch
Bước chân nhè nhẹ ngại người hay.
Cười nói rõ ràng có gì nghi.
Kẻ trí hiện nay gắng gìn giữ
Chớ đợi sáng mai gà mất đi.
Nghĩa là, bước chân nhè nhẹ sợ người ta hay nhưng mà ông cười nói rõ ràng là đã lộ ra rồi có gì đâu mà nghi. Ngay đó đã lộ bày cái mặt thật của ông, bản lai diện mục của ông trong đó chứ không đâu xa. Người trí ngay đó nhận liền, còn chần chờ để cho tình thức chen vào là mất mình. Ngay bước chân đây, ngay chỗ nói cười đó là cái gốc xưa đã hiển lộ ra, đâu có gì giấu diếm. Khéo thì ngay đó nhận ra nó là xong. Ai cũng đều có cơ hội để trở về hết. Còn chần chừ suy nghĩ rồi so đo hoặc tính toán là mất ngay, tức là lúc đó để tình thức chen vào. Ngay đó cũng là quê nhà mà ngay đó cũng là xứ người. Chỉ một chút xíu đó thôi mà nó cách biệt rất là xa. Ngay cái nghe đó mà chỉ nhớ theo tiếng, theo duyên là ở xứ người, ngay cái nghe đó mà vẫn chẳng quên mình, nghe vẫn nghe rõ ràng nhưng không có theo duyên theo tiếng, vẫn rõ ràng hiện hữu thì đó là quê nhà. Chỉ cần khéo một cái chuyển là xong. Con đường trở về là như vậy.
Chúng ta đầy đủ nhân duyên với nhau, cùng gặp gỡ trong một pháp hội, được nghe được nhắc những lẽ thật này thì quả là nhân duyên hy hữu trong đời mình, hay nói rõ hơn là trong kiếp luân hồi này.
Bởi vì, chúng ta còn nghe được chỗ để trở về, chứ không phải nghe để đi vào luân hồi. Nếu không khéo chuyển để trở về thì thật là đáng buồn đáng tiếc. Đây đã chỉ hết tình với nhau rồi, đâu có giấu diếm gì. Đâu phải như ngoài đời là còn phải giấu nghề sợ người ta hay hơn, rồi bội phản mình. Còn trong đạo thì không có chuyện đó. Có gì là chỉ hết để rồi tất cả chúng ta cùng sống cùng trở về lẽ thật, cùng giải thoát để gặp nhau trong ánh sáng chân thật, đó là niềm vui lớn nhất.
Như vậy bậc tu hành giải thoát thì ai cũng đều có chí xuất trần. Có chí xuất trần mới đi tu, mà tu là tu hạnh giải thoát. Đây là sức mạnh để chúng ta vươn lên từ trong trần lao. Trong thế tục mà chúng ta vươn lên, trong bùn lầy của thế gian mà vọt ra, thì đâu có yếu ớt cũng không phải là tầm thường.
Dù thế nào thì chúng ta cũng phải nhớ đến chí nguyện này, trong mọi hành động mọi cử chỉ mọi ý nghĩ đều phải nhớ đến chí nguyện xuất trần. Làm gì chúng ta cũng phải nhớ đến chỗ đó chứ không để lơ lỏng xen hở. Ý nghĩa xuất trần phải luôn sát bên mình trong suốt cuộc đời này, không những suốt cuộc đời này mà trong suốt các kiếp sinh tử còn lại của mình cho đến khi viên mãn, phải vậy mới được. Giữ sao cho ngày trước mình nghĩ đến cái tình như thế nào, thì bây giờ đây mình nghĩ đến đạo cũng như thế đó. Phải thực hiện cho kỳ được cái chí nguyện này ngay trong cuộc sống. Đó là việc bổn phận của mỗi người chúng ta, không ai thay thế cho mình cả cũng không chờ đợi ai được. Phải quyết tâm như vậy, không để phải hổ thẹn với cái chí xuất trần mà chúng ta đã có.
Hoà Thượng Thiên Như có dạy một đoạn: «Thời gần đây có một hạng xuất gia tuy nói là lìa tục mà thói tục chẳng trừ. Trọn nói xuất trần mà duyên trần chẳng cắt đứt. Kinh giáo vốn không rõ biết, tham thiền lại chẳng nhận hiểu, tâm vượn chạy mãi, ý ngựa ruổi rong thành bầy thành đội ồn ào cả ngày. Chẳng những luống hao của tín thí cũng là chôn vùi tính linh chính mình. Đến khi nhắm mắt đường trước chẳng biết đi đâu, thật là uổng vào nơi cửa không, sống đã vô ích chết lại lạc loài».
Tu xuất trần mà như vậy sao? Kinh thì không thông suốt, tham thiền cũng chẳng có hiểu rõ, cứ để tâm vượn ý ngựa nó chạy thành bầy thành đội ồn ào cả ngày. Thấy đau buồn không? Nói lìa tục xuất trần mà chưa có xuất gì hết, có khi còn dây dưa trở lại để rồi chôn vùi cái tính linh của mình. Cho nên Sư bảo đến khi nhắm mắt đường trước chẳng biết đi đâu. Thật là uổng vào cửa KHÔNG, tức là vào cửa giải thoát. Nên Sư mới nói « sống đã vô ích chết lại lạc loài ». Sống vô ích không có công phu, chết lạc loài bơ vơ. Như vậy có buồn không? Chúng ta nghe nhắc như vậy rồi phải kiểm lại để mà thúc đẩy mình tiến tu đạo nghiệp, thế mới xứng đáng là người có tâm cầu đạo giải thoát.
Mong rằng, chúng ta không phải là người như thế. Mà tất cả chúng ta đều sẽ là những người thành tựu được bản nguyện giải thoát của mình và cùng vui với niềm vui xuất trần. Đó là điều mong mỏi của tất cả chúng ta khi phát chí nguyện xuất trần, vượt khỏi trần lao nguyện làm người Thượng Sĩ.
BÀI HỌC GIÁC NGỘ HT Thích Thanh Từ
- Details
- Geschrieben von: Tu Viện Thiện Hòa
- Kategorie: Phật Học
- Zugriffe: 14245
Lâu nay, đa số Phật tử quan trọng ngày Phật Đản Sinh hơn là ngày Phật Thành Đạo. Đúng ra, ngày Phật Thành Đạo quan trọng hơn vì nhân giác ngộ thành đạo nên Phật mới chuyển pháp luân nói pháp, rồi có Phật pháp, có đạo Phật và có Phật tử, đó quả là một ngày rất trọng đại. Cụ thể là Thánh tích Bồ-đề Đạo tràng ở Ấn Độ là một Thánh tích thiêng liêng nhất của đạo Phật vẫn còn tồn tại. Vì vậy, nhân ngày Phật Thành Đạo năm nay, quý thầy sẽ nói về đề tài: BÀI HỌC GIÁC NGỘ để nhắc nhở tất cả thấy được ý nghĩa, giá trị của ngày trọng đại này.
I/ Ở Trong Trần Lao Mà Vượt Khỏi Trần Lao.
Tập nghĩ tốt cho người HT Thích Thanh Từ
- Details
- Geschrieben von: minhtrang
- Kategorie: Phật Học
- Zugriffe: 12858
Buổi sinh hoạt đạo tràng hôm nay quý thầy sẽ cho quý Phật tử một bài tập để tu học, bài tập này có tựa là “Tập nghĩ tốt cho người”. Đây là một bài tập phải trui luyện suốt năm.
Tại sao chúng ta phải tập nghĩ tốt cho người? Vì người ta thường có thói quen thấy cái xấu mà ít thấy cái tốt của người. Nhất là khi đã có thành kiến với ai thì lại càng cố nhìn những cái xấu của người nhiều hơn, và khi đã ghét ai thì đến cái cửa, cái cổng cũng ghét luôn, nên người biết tu rồi thì phải tập nghĩ đến cái tốt của người khác.
I/ AI CŨNG CÓ TÁNH GIÁC
Chết - Sống
- Details
- Geschrieben von: Tu Viện Thiện Hòa
- Kategorie: Phật Học
- Zugriffe: 13920
Nhân mùa An cư tại Thiền viện Trúc Lâm, quý Phật tử trong đạo tràng về đây cúng dường, và tâm khao khát Phật pháp nên thỉnh quý thầy nói chuyện đạo lý để huân tập sâu chủng tử giác ngộ. Tinh thần khao khát đối với pháp của Phật là điều rất quý. Hôm nay, quý thầy nói về đề tài Chết Sống để nhắc nhở cho tất cả cùng ứng dụng tu tập.
Lâu nay đa số người thường nói là sống rồi tới chết, con người có sanh ra rồi có tử, là có sống chết. Nhưng ở đây, quý thầy nói ngược lại là Chết Sống.
- CÁI Biết SÁNG NGỜI MUÔN THUỞ HT Thích Thanh Từ
- Nghi Lễ Phật Đản & Vu Lan Văn Nghệ Cúng Dường PL 2557 DL 2013
- Nghi Lễ Kinh Vu Lan PL 2558-2014 do Chùa & Tu Viện Thiện Hòa Germany tổ chức 30.08.2014
- Nhạc Phẩm Về Dưới Phật Đài
- Thiệp Tết Nguyên Đán Ất Mùi
- Thiệp Chúc Tết Giáp Ngọ 2014
- Thơ Chúc Xuân 2014
- LỊCH SINH HOẠT 2018
- Thông Tin 2020
- Ăn chay và những điều cần biết
Seite 8 von 9